Nghiên cứu – Tapchidoanhnhan.com https://tapchidoanhnhan.com Kết nối doanh nhân, lan tỏa tri thức, nâng tầm giá trị Sat, 20 Sep 2025 10:10:46 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tapchidoanhnhan/2025/08/ceo.svg Nghiên cứu – Tapchidoanhnhan.com https://tapchidoanhnhan.com 32 32 Não bộ tập trung nhìn vào đâu khi phán xét người khác qua ngoại hình? https://tapchidoanhnhan.com/nao-bo-tap-trung-nhin-vao-dau-khi-phan-xet-nguoi-khac-qua-ngoai-hinh/ Sat, 20 Sep 2025 10:10:44 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/nao-bo-tap-trung-nhin-vao-dau-khi-phan-xet-nguoi-khac-qua-ngoai-hinh/

Một nghiên cứu mới đây đã xác định được các mẫu hình視覺 mà con người sử dụng khi đánh giá cơ thể, cho thấy sự chú ý tập trung nhiều nhất vào ngực và thân mình. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ theo dõi mắt để chỉ ra rằng các mẫu nhìn này bị ảnh hưởng bởi chỉ số khối cơ thể và đánh giá cụ thể đang được thực hiện. Những phát hiện này vừa được công bố trong Behavioral Sciences.

Trong khi các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng con người hình thành ấn tượng nhanh chóng và nhất quán dựa trên ngoại hình, bao gồm hình dạng và kích thước cơ thể, nhưng vẫn còn tương đối ít được biết về nơi con người nhìn trong quá trình đánh giá này. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều tập trung vào sự hấp dẫn, thường sử dụng ảnh hoặc mô hình giới tính đơn. Đội ngũ nghiên cứu mới này đã đặt mục tiêu khám phá cách chỉ số khối cơ thể ảnh hưởng không chỉ đến đánh giá của con người về sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, mà còn cả mẫu hình視覺 của họ khi đưa ra những đánh giá này.

Tác giả nghiên cứu Edward Morrison, một giảng viên cao cấp tại Đại học Portsmouth, cho biết: ‘Nghiên cứu này được thực hiện với sinh viên đại học và tác giả cùng nghiên cứu, Marianne Lanigan. Cô ấy quan tâm đến việc sử dụng theo dõi mắt cho dự án nghiên cứu đại học của mình, và chúng tôi đã kết hợp điều này với sự quan tâm của tôi trong nhận thức xã hội – đánh giá chúng tôi đưa ra về người khác.’

Có rất nhiều nghiên cứu về cách chúng ta đánh giá người khác từ vẻ ngoài, bao gồm cả cách họ gầy hoặc béo, nhưng có ít nghiên cứu về cách chuyển động mắt của con người khác nhau khi nhìn vào những cơ thể này, và không có gì về chuyển động mắt khi đưa ra các đánh giá khác nhau về cùng một cơ thể. Trong trường hợp của chúng tôi, chúng tôi đã xem xét đánh giá về sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, tất cả đều được cho là chỉ số tiến hóa của sự phù hợp.

Để điều tra vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã tuyển dụng 32 người tham gia, chủ yếu là sinh viên tâm lý học đại học, với độ tuổi trung bình khoảng 20 tuổi. Hầu hết đều là nữ và xác định là dị tính hoặc song tính. Nghiên cứu được thực hiện trong một môi trường phòng thí nghiệm được kiểm soát, nơi những người tham gia xem hình ảnh kỹ thuật số của các mô hình nam và nữ khác nhau có chỉ số khối cơ thể một cách có hệ thống. Các mô hình được tạo ra bằng công cụ trực tuyến, được tiêu chuẩn hóa về chiều cao nhưng khác nhau về trọng lượng cơ thể để mô phỏng các hạng mục gầy, cân nặng thấp, cân nặng cao, thừa cân và béo phì.

Những người tham gia được yêu cầu đánh giá mỗi mô hình trên ba chiều – sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, sử dụng thang điểm Likert sáu điểm. Trong khi thực hiện điều này, thiết bị theo dõi mắt đã ghi lại nơi và thời gian họ nhìn vào các bộ phận khác nhau của cơ thể, bao gồm đầu, ngực, eo, đùi và chân dưới. Mỗi hình ảnh được hiển thị trong năm giây, và những người tham gia hoàn thành một loạt các thử nghiệm, đầu tiên là đánh giá tất cả năm mô hình nữ về sự hấp dẫn, sau đó là sức khỏe và tuổi trẻ, và lặp lại quy trình tương tự cho các mô hình nam. Thứ tự trình bày hình ảnh được cân bằng để giảm thiểu sai sót.

Các nhà nghiên cứu đã phân tích cả dữ liệu theo dõi mắt và điểm đánh giá. Họ đã tìm thấy rằng sự chú ý視覺 không được phân bố đều trên cơ thể. Ngực và eo nhận được nhiều sự chú ý nhất và thời gian xem lâu nhất, trong khi đùi và chân dưới nhận được ít nhất. Thú vị là, những người tham gia có xu hướng nhìn lâu hơn và thường xuyên hơn vào các mô hình nam hơn là mô hình nữ. Mẫu hình này có thể đã bị ảnh hưởng bởi sự thống trị của phụ nữ dị tính trong nhóm tham gia.

Bộ phận cơ thể nhận được nhiều sự chú ý đã thay đổi theo kích thước cơ thể. Ở chỉ số khối cơ thể thấp hơn, con người dành nhiều thời gian hơn để nhìn vào eo, trong khi ở trọng lượng cao hơn, cái nhìn của họ chuyển hướng nhiều hơn đến ngực. Sự chú ý đến đầu tăng lên khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, có thể phản ánh mối liên hệ giữa cân nặng và tuổi tác. Những thay đổi này xảy ra ngay cả khi những người tham gia không được yêu cầu một cách có ý thức để đánh giá các vùng cơ thể cụ thể.

Các loại đánh giá xã hội khác nhau cũng tinh vi ảnh hưởng đến hành vi nhìn. Khi những người tham gia đánh giá tuổi trẻ, họ có xu hướng nhìn nhiều hơn vào đầu, so với khi họ đánh giá sự hấp dẫn hoặc sức khỏe. Điều này có ý nghĩa khi khuôn mặt mang lại nhiều tín hiệu視覺 liên quan đến tuổi tác. Điểm đánh giá cho sức khỏe dẫn đến tập trung nhiều hơn vào ngực và phần eo, khu vực liên quan đến phân phối mỡ nhìn thấy và cơ bắp.

Khi nói đến điểm đánh giá thực tế, những người tham gia đánh giá mức độ cân nặng khỏe mạnh thấp nhất là hấp dẫn và khỏe mạnh nhất. Điểm đánh giá tuổi trẻ, trái lại, đạt đỉnh cao nhất đối với cơ thể nhẹ nhất – những cơ thể được phân loại là gầy. Điều này có thể phản ánh mối liên hệ văn hóa và tiến hóa giữa sự gầy, tuổi trẻ và tiềm năng sinh sản. Khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, điểm đánh giá tuổi trẻ giảm dần cho cả mô hình nam và nữ.

Cũng có một số khác biệt trong cách những người tham gia đánh giá cơ thể nam và nữ. Mô hình nam gầy được đánh giá thấp hơn đáng kể về sự hấp dẫn và sức khỏe so với mô hình nữ gầy. Điều này có thể phản ánh cách cơ bắp thấp, thường đi kèm với cân nặng thấp, bị nhìn nhận tiêu cực ở nam giới. Đối với mô hình nữ, ngay cả những mô hình gần ngưỡng cân nặng khỏe mạnh vẫn được đánh giá cao về sự hấp dẫn và tuổi trẻ. Điều này phù hợp với lý tưởng văn hóa có xu hướng ưu tiên sự gầy ở phụ nữมาก hơn ở nam giới.

Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy các tương tác giữa giới tính của mô hình, loại đánh giá và chỉ số khối cơ thể. Ví dụ, mô hình nam khỏe mạnh nhất có chỉ số khối cơ thể cao hơn một chút so với mô hình hấp dẫn nhất, cho thấy rằng những người tham gia có thể liên kết một số cơ bắp với sức khỏe. Điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đây cho thấy con người thường thích cơ thể gầy hơn ngay cả khi chúng trông kém khỏe mạnh. Sự khác biệt có thể do sự khác biệt văn hóa, vì các nghiên cứu trước đây cho thấy mô hình này sử dụng mẫu từ dân số châu Á, trong khi nghiên cứu hiện tại chủ yếu liên quan đến người tham gia gốc châu Âu.

Mặc dù nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc mới về cách con người sử dụng tín hiệu視覺 để đánh giá người khác, nhưng nó vẫn có một số hạn chế. Kích thước mẫu nhỏ và thiên vị về giới tính và độ tuổi, điều này có thể hạn chế khả năng áp dụng của kết quả cho các dân số rộng lớn hơn.

Kết quả có thể khác nếu chúng tôi có đủ người xem nam để so sánh, vì các nghiên cứu khác cho thấy, Morrison lưu ý. Các kích thích của chúng tôi cũng là mô hình được tạo ra bởi máy tính mà không có khuôn mặt hoặc quần áo (nhưng không có cơ quan sinh dục). Điều này là để chúng tôi có thể kiểm soát kích thước cơ thể một cách thử nghiệm trong khi giữ mọi thứ khác không đổi. Tuy nhiên, chúng tôi có thể nhìn vào mô hình được tạo ra bởi máy tính khác với người thực.

Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng các nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm hỗn hợp người tham gia cân bằng hơn về giới tính và độ tuổi. Họ cũng đề xuất khám phá cách hình ảnh cơ thể và kinh nghiệm của mọi người có thể định hình đánh giá của họ về người khác. Các nghiên cứu trong môi trường tự nhiên hơn, chẳng hạn như sử dụng thiết bị theo dõi mắt có thể đeo trong khi quan sát mọi người ở nơi công cộng, cũng có thể giúp xác nhận liệu các mẫu quan sát trong phòng thí nghiệm có phản ánh hành vi trong thế giới thực hay không.

]]>
Đại học Quốc gia Hà Nội đặt mục tiêu trở thành đại học hàng đầu thế giới https://tapchidoanhnhan.com/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi-dat-muc-tieu-tro-thanh-dai-hoc-hang-dau-the-gioi/ Mon, 25 Aug 2025 09:47:20 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi-dat-muc-tieu-tro-thanh-dai-hoc-hang-dau-the-gioi/

Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và sự điều hành quyết liệt của Ban Giám đốc. Cơ sở đào tạo này đã thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển và tạo lập vị thế mới của cơ sở đào tạo, nghiên cứu hàng đầu cả nước, vươn tầm quốc tế.

Một trong những thành quả đáng ghi nhận là sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ ĐHQGHN, xây dựng môi trường làm việc dân chủ, hợp tác, kiến tạo nền tảng để phát triển bền vững. Công tác xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được chú trọng, với tỷ lệ chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trung bình hằng năm đạt hơn 97%; đảng viên đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 98%/năm. Toàn Đảng bộ ĐHQGHN đã kết nạp 961 đảng viên, trong đó có 558 đảng viên là sinh viên và 14 đảng viên là học sinh.

ĐHQGHN cũng đã triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW, sắp xếp tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, giảm từ 36 xuống 25 đầu mối. Cơ chế tự chủ và tái cấu trúc bộ máy theo hướng tinh gọn gắn với nâng cấp, phát triển một số đơn vị đã được đẩy mạnh. ĐHQGHN đã trao quyền tự chủ cao, gắn với trách nhiệm giải trình cho các đơn vị, tập trung quản trị chiến lược và chất lượng.

Chuyển đổi số và đổi mới quản trị tại ĐHQGHN có bước tiến rõ nét, với hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý được hiện đại hóa. Đến cuối năm 2024, 95% học liệu được số hóa; dữ liệu cán bộ, sinh viên số hóa đạt 100%; 20% môn học mỗi chương trình áp dụng giảng dạy trực tuyến.

Về đào tạo, ĐHQGHN đã điều chỉnh quy mô đào tạo đại học lên hơn 60.000 người học, vượt 26,5% so với chỉ tiêu đề ra. Các chương trình đào tạo được điều chỉnh linh hoạt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao. Quốc tế hóa là trụ cột chiến lược trong đào tạo, ĐHQGHN đang tái cấu trúc toàn diện chương trình, phương pháp giảng dạy và mô hình tổ chức theo chuẩn quốc tế.

Hoạt động khoa học và công nghệ của ĐHQGHN đạt những thành tựu đáng ghi nhận, bước đầu áp dụng quy trình tin học hóa, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống các phần mềm quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Nguồn lực tài chính đã và đang đầu tư cho nhiệm kỳ tới trong lĩnh vực khoa học công nghệ tăng đột biến, ước đạt hơn 3.520 tỷ đồng.

Mạng lưới khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của ĐHQGHN được cấu trúc lại với 15 chương trình nghiên cứu; 8 lĩnh vực công nghệ mũi nhọn ưu tiên. Công viên Công nghệ cao và Đổi mới sáng tạo gắn với phát triển các đơn vị nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao.

Nguồn lực tài chính, hạ tầng cơ sở vật chất và hạ tầng số đạt được nhiều thành tựu. Xây dựng Khu đô thị ĐHQGHN tại Hòa Lạc và đến nay hầu hết các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc đã chính thức chuyển trụ sở làm việc tới Hòa Lạc là nhiệm vụ lớn và được xác định là khâu đột phá của Đảng bộ ĐHQGHN trong nhiệm kỳ vừa qua.

Với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và sự hỗ trợ, kiến tạo của các bộ, ngành cùng nội lực mạnh mẽ từ đội ngũ giảng viên, nhà khoa học và sinh viên, ĐHQGHN đang trên hành trình phát triển đột phá trở thành biểu tượng của đổi mới sáng tạo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ ĐHQGHN đặt mục tiêu trở thành “Đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong nhóm các đại học hàng đầu thế giới” vào năm 2030. Để đạt được điều này, ĐHQGHN tiếp tục đẩy mạnh phân cấp trong quản trị đại học, tài chính và cơ sở vật chất, đồng thời bảo đảm liên thông nhân lực và chia sẻ nguồn lực.

Mới đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định về Đại học Quốc gia, tạo ra một cơ chế mới để phát huy hết tiềm lực thực hiện các sứ mệnh mới của kỷ nguyên vươn mình.

]]>
Chuột mang thai hít hóa chất trong nước vape có con với hộp sọ nhỏ hơn https://tapchidoanhnhan.com/chuot-mang-thai-hit-hoa-chat-trong-nuoc-vape-co-con-voi-hop-so-nho-hon/ Wed, 13 Aug 2025 12:07:06 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/chuot-mang-thai-hit-hoa-chat-trong-nuoc-vape-co-con-voi-hop-so-nho-hon/

Một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng những con chuột mang thai tiếp xúc với thành phần cơ bản của hầu hết các loại nước vape có thể sinh ra những chú chuột con với hộp sọ nhỏ hơn và hẹp hơn. Phát hiện này gây ra nhiều lo ngại, đặc biệt là khi ‘vapor’ trong thí nghiệm này không chứa bất kỳ hóa chất nào khác ngoài chất mang, không bao gồm cả nicotine. Điều này cho thấy ngay cả vape không chứa nicotine cũng có thể không an toàn, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai.

Mice who were exposed to the 30/70 mixture had noticeably shorter noses. (Richlak et al., PLOS One, 2025)
Mice who were exposed to the 30/70 mixture had noticeably shorter noses. (Richlak et al., PLOS One, 2025)

Nghiên cứu, do nhà giải phẫu James Cray từ Trường Cao đẳng Y tế Đại học Tiểu bang Ohio dẫn đầu, nhằm mục đích xác định cơ sở cho các tác động của chất mang lên cơ thể. Điều này cho phép các nhà nghiên cứu trong tương lai có thể thêm các thành phần khác của nước vape, như nicotine, vào chất mang này và xác định được tác động của từng chất.

Most vape fluids contain a mixture of propylene glycol and glycerol as a carrier. (Artjom Kissler/Getty Images)
Most vape fluids contain a mixture of propylene glycol and glycerol as a carrier. (Artjom Kissler/Getty Images)

Các nhà nghiên cứu đã chuẩn bị hai công thức cơ bản của nước vape plain từ propylene glycol và glycerol. Một công thức chứa hỗn hợp 50/50 của propylene glycol và glycerol, trong khi công thức khác có tỷ lệ 30/70. Những con chuột mang thai đã được tiếp xúc với vape hits của một trong hai công thức hoặc không khí tươi như một biện pháp kiểm soát, với tỷ lệ một lần mỗi phút trong bốn giờ mỗi ngày, trong suốt thai kỳ khoảng 20 tuần của chúng. Kết quả là 21 lứa và 140 chuột con.

Sau 14 ngày sinh, chuột con đã được giết chết, hộp sọ của chúng được đo chi tiết và quét để tái tạo 3D. Mặc dù nhóm nghiên cứu đã mong đợi công thức 30/70 sẽ có ít tác động tiêu cực đến sự phát triển hộp sọ và khuôn mặt hơn công thức 50/50, nhưng kết quả lại hoàn toàn ngược lại. So với các nhóm khác, chuột con của những con chuột mẹ tiếp xúc với chất lỏng 30/70 trong khi mang thai có hộp sọ và khuôn mặt nhỏ hơn đáng kể, đo cả về chiều rộng và chiều dài, và mũi ngắn hơn.

Nhóm tiếp xúc với hỗn hợp 30/70 cũng có trọng lượng cơ thể thấp hơn đáng kể so với các nhóm khác, mặc dù vẫn trong phạm vi bình thường đối với chuột ở độ tuổi này. Việc xác định tác động sức khỏe của vape rất phức tạp. Vì lý do đạo đức, không thể thực hiện loại thử nghiệm này trực tiếp trên người; các thí nghiệm trên mô hình động vật được coi là đạo đức và tiết kiệm thời gian hơn, nhưng kết quả của chúng không phải lúc nào cũng có thể ngoại suy ra sức khỏe con người.

Ngoài ra, sự thiếu hụt quy định thị trường có nghĩa là nội dung của mỗi vape có thể thay đổi rộng rãi. Việc cách ly các tác động của từng thành phần có thể giúp người dân đưa ra quyết định sáng suốt hơn khi mua vape. Điều này đặc biệt quan trọng khi vape đã được chứng minh, trong một số trường hợp, có một số lợi ích y tế, như giúp người dân cai thuốc lá.

Đối với hiện tại, việc cách ly từng biến số là cách duy nhất để bắt đầu nhìn thấy qua khói mù. ‘Đây là một nghiên cứu nhỏ nói về khả năng vape không chứa nicotine không an toàn’, Cray nói. ‘Và đó là một dấu hiệu cho thấy chúng ta có lẽ nên nghiên cứu các sản phẩm không chứa nicotine cũng như nghiên cứu các sản phẩm có chứa nicotine’.

Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí PLOS One.

]]>
Con cả có xu hướng lãnh đạo hơn vì được giám sát từ sớm? https://tapchidoanhnhan.com/con-ca-co-xu-huong-lanh-dao-hon-vi-duoc-giam-sat-tu-som/ Wed, 13 Aug 2025 06:18:23 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/con-ca-co-xu-huong-lanh-dao-hon-vi-duoc-giam-sat-tu-som/

Một nghiên cứu gần đây của nhà nghiên cứu Frank J. Sulloway từ Đại học Harvard đã đưa ra những phát hiện thú vị về mối liên hệ giữa thứ tự sinh và đặc điểm tính cách của hàng nghìn người. Theo đó, những người con cả trong gia đình có xu hướng cầu toàn, có tổ chức, thích kiểm soát và nghiêm túc hơn so với các em út. Những đặc điểm này thường thấy ở các nhà lãnh đạo.

Theo Sulloway, việc trở thành con cả thường đi kèm với trách nhiệm và kỳ vọng lớn hơn từ bố mẹ. Điều này đã giúp họ hình thành lối sống có trách nhiệm, tuân thủ quy tắc và có khả năng kiểm soát bản thân tốt hơn từ sớm. Khi trưởng thành, họ có xu hướng đảm nhận các vị trí lãnh đạo trong công việc. Những đặc điểm nổi bật này không chỉ giúp họ thành công trong sự nghiệp mà còn định hình phong cách lãnh đạo của họ.

Một số nghiên cứu tiếp theo đã củng cố quan điểm của Sulloway. Khảo sát của CareerBuilder (Mỹ) chỉ ra rằng con cả chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm làm quản lý, điều hành. Tại Anh, một cuộc khảo sát của YouGov cũng ghi nhận tỷ lệ người tự mô tả bản thân là ‘nghiêm túc, có định hướng rõ ràng’ cao nhất rơi vào nhóm con đầu lòng. Điều này cho thấy rằng thứ tự sinh có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình tính cách và định hướng sự nghiệp của một người.

Nhiều người thành công trong giới công nghệ và chính trị cũng là con cả, chẳng hạn như Jeff Bezos – nhà sáng lập Amazon, Elon Musk – CEO Tesla và SpaceX, và Angela Merkel – cựu Thủ tướng Đức. Những ví dụ này cho thấy rằng con cả có thể có tiềm năng trở thành lãnh đạo trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cảnh báo không nên tuyệt đối hóa vai trò của thứ tự sinh. TS Kevin Leman, nhà tâm lý học, cho rằng cách bố mẹ đối xử và môi trường giáo dục mới định hình tính cách một cách rõ ràng nhất. Điều này có nghĩa là mặc dù thứ tự sinh có thể có ảnh hưởng, nhưng nó không phải là yếu tố quyết định duy nhất trong việc định hình con người.

Vì thế, dù là con cả hay con út, điều quan trọng không phải là bạn sinh thứ mấy, mà là bạn đã lớn lên như thế nào. Môi trường giáo dục, sự quan tâm và cách tiếp cận của bố mẹ có thể giúp định hình tính cách và tiềm năng của mỗi người. Do đó, mỗi cá nhân cần được đánh giá và xem xét dựa trên hoàn cảnh và đặc điểm riêng của họ.

]]>
Sinh viên Công nghệ sinh học cần chuẩn bị gì để có việc làm hấp dẫn? https://tapchidoanhnhan.com/sinh-vien-cong-nghe-sinh-hoc-can-chuan-bi-gi-de-co-viec-lam-hap-dan/ Mon, 11 Aug 2025 20:32:48 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/sinh-vien-cong-nghe-sinh-hoc-can-chuan-bi-gi-de-co-viec-lam-hap-dan/

Ngành Công nghệ sinh học đang trở thành một trong những lĩnh vực hứa hẹn và đột phá trong thế kỷ 21, với ứng dụng rộng rãi trong các ngành như dược, nông nghiệp, và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nhiều sinh viên và người lao động trong ngành này thường lo lắng về khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm hoặc phải làm trái ngành.

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT
Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi người học phải có nền tảng học thuật vững chắc, tư duy khoa học sắc bén và khả năng đọc hiểu, tổng hợp và vận dụng kiến thức linh hoạt. Đặc biệt, kỹ năng thực hành trong phòng thí nghiệm, sử dụng thành thạo các thiết bị và phần mềm số, khai thác dữ liệu lớn, nắm vững tin sinh học, lập trình cơ bản và ngoại ngữ chuyên ngành là những yếu tố không thể thiếu để hội nhập tri thức toàn cầu.

Thực tế cho thấy nhiều sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ sinh học còn yếu về kỹ năng thực hành, sử dụng công nghệ số và ngoại ngữ, dẫn đến khó đáp ứng ngay các yêu cầu khắt khe của doanh nghiệp hay viện nghiên cứu hiện đại.

Theo ThS Dương Nhật Linh, giảng viên Khoa Công nghệ sinh học – Trường Đại học Mở TPHCM, quan niệm về khó xin việc trong ngành Công nghệ sinh học cần được nhìn nhận lại một cách toàn diện và thấu đáo. Công nghệ sinh học là ngành đặc thù với tính liên ngành cao, yêu cầu nhân lực không chỉ am hiểu về sinh học, mà còn phải hội tụ tri thức từ nhiều lĩnh vực như công nghệ thông tin, hóa học, tự động hóa và quản lý chất lượng.

ThS Linh khuyến nghị sinh viên ngành Công nghệ sinh học cần chủ động trau dồi kiến thức chuyên sâu, ngoại ngữ, kỹ năng số và trải nghiệm liên ngành. Công nghệ sinh học đang ‘khát’ nhân lực chất lượng cao, những người linh hoạt, sáng tạo và đa năng. Chỉ cần chủ động và sẵn sàng đổi mới, sinh viên ngành Công nghệ sinh học có thể tìm được công việc phù hợp với năng lực.

Về phía doanh nghiệp, ông Đinh Xuân Tùng, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Kỹ thuật Môi trường Gia Định, cho rằng nỗi lo thất nghiệp của sinh viên công nghệ sinh học phần lớn đến từ tư duy bị động. Ứng viên nổi bật không phải là người có điểm trung bình tích lũy cao nhất mà là người thể hiện được khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn.

Ông Tùng nhấn mạnh sự ‘kén chọn’ của doanh nghiệp nằm ở kỹ năng thực tiễn. Sinh viên cần chủ động tìm kiếm cơ hội thực tập, tham gia các dự án nghiên cứu hoặc tự thực hiện các thí nghiệm nhỏ. Việc biết vận hành một hệ thống lên men, kỹ thuật phân lập và định danh vi khuẩn, hay cách phân tích kết quả xét nghiệm có giá trị hơn rất nhiều so với một bảng điểm ‘đỏ chói’.

Theo ông Tùng, sinh viên cần thay đổi góc nhìn từ bị động sang chủ động, hoạch định kế hoạch học tập và hành động cụ thể để đáp ứng nhu cầu thực tế. Cánh cửa cơ hội của ngành Công nghệ sinh học rất rộng, nhưng không tự động mở ra cho mọi người. Nó mở ra cho những ai chủ động trang bị kiến thức nền tảng vững chắc, kỹ năng thực hành thành thạo, tư duy liên ngành, đặc biệt với công nghệ thông tin và dữ liệu, cùng khả năng ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như giải quyết vấn đề, làm việc nhóm.

Tóm lại, ngành Công nghệ sinh học đang bước vào kỷ nguyên số với tốc độ phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Sinh viên và người lao động trong ngành cần chủ động trang bị kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.

]]>