Nhân lực – Tapchidoanhnhan.com https://tapchidoanhnhan.com Kết nối doanh nhân, lan tỏa tri thức, nâng tầm giá trị Wed, 27 Aug 2025 00:18:37 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tapchidoanhnhan/2025/08/ceo.svg Nhân lực – Tapchidoanhnhan.com https://tapchidoanhnhan.com 32 32 Chuyển đổi số khu vực công: Tiền đề cho phát triển kinh tế – xã hội https://tapchidoanhnhan.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-tien-de-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2/ Wed, 27 Aug 2025 00:18:32 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-tien-de-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2/

Chuyển đổi số trong khu vực công đang nổi lên như một trụ cột chiến lược quan trọng trong tiến trình cải cách thể chế quốc gia. Việc ứng dụng công nghệ số vào khu vực công không chỉ giúp tối ưu hóa hoạt động của các cơ quan Nhà nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận dịch vụ công nhanh chóng. Tại Diễn đàn ‘Chuyển đổi số khu vực công – Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội’ do Báo Điện tử Tiếng nói Việt Nam tổ chức, các chuyên gia hàng đầu đã tập trung thảo luận về việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong khu vực công.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hòa - Phó Viện Trưởng Viện Trí Việt IVM - VUSTA (Bộ Khoa học và Công nghệ), Chủ tịch VDIC, Trung tâm Thông tin Truyền thông số Việt Nam của Hội Truyền Thông Số (VDCA) trình bày tham luận tại diễn đàn.
Ông Nguyễn Hữu Thái Hòa – Phó Viện Trưởng Viện Trí Việt IVM – VUSTA (Bộ Khoa học và Công nghệ), Chủ tịch VDIC, Trung tâm Thông tin Truyền thông số Việt Nam của Hội Truyền Thông Số (VDCA) trình bày tham luận tại diễn đàn.

Các chuyên gia khẳng định rằng chuyển đổi số trong doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số cũng đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Phó Viện Trưởng Viện Trí Việt IVM – Nguyễn Hữu Thái Hòa, cho rằng phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ tại các cơ quan Nhà nước còn nhiều lạc hậu, ngân sách dành cho chuyển đổi số thường bị giới hạn, và việc triển khai hạ tầng như trung tâm dữ liệu, mạng lưới 5G, hoặc phần mềm quản lý đòi hỏi chi phí lớn.

Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng trao đổi cùng các diễn giả, các chuyên gia, học giả các vấn đề của chuyển đổi số khu vực công.
Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng trao đổi cùng các diễn giả, các chuyên gia, học giả các vấn đề của chuyển đổi số khu vực công.

Ngoài ra, khu vực công thường gặp khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ do mức lương không cạnh tranh so với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, chuyển đổi số cũng mở ra cơ hội lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng dịch vụ công của đất nước. Các công cụ như hệ thống quản lý văn bản điện tử, chữ ký số, hoặc quy trình phê duyệt trực tuyến giúp giảm thời gian xử lý công việc, cho phép người dân nộp hồ sơ mà không cần đến cơ quan hành chính.

Thực hiện chuyển đổi số để cải thiện chất lượng dịch vụ công trực tuyến và cung cấp các dịch vụ công ở mức độ 3 và 4, sẽ giúp người dân và doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính mọi lúc, mọi nơi. Từ đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép xây dựng, đến nộp thuế trực tuyến… Tiến trình tiếp theo của chuyển đổi số sẽ là hướng tới cá nhân hóa dịch vụ, với dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo có thể được sử dụng để phân tích nhu cầu của người dân, từ đó cung cấp dịch vụ phù hợp hơn.

Tại diễn đàn, các chuyên gia cũng thảo luận về việc chống tham nhũng và tăng cường sự minh bạch trong quản lý Nhà nước thông qua các nền tảng số hóa. Hệ thống số hóa giúp công khai ngân sách, kế hoạch phát triển, hoặc các quyết định hành chính, tăng cường sự giám sát của người dân. Đồng thời, các chuyên gia cũng đưa ra giải pháp về đầu tư hạ tầng công nghệ, tăng ngân sách cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng số, và xây dựng các chương trình đào tạo kỹ năng số cho cán bộ, công chức.

Khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển giải pháp số cho khu vực công, như ứng dụng AI, blockchain… Chuyển đổi số khu vực công sẽ khó tạo ra đột phá thực chất nếu chỉ được nhìn nhận như một nhiệm vụ công nghệ đơn thuần. Việc tích hợp chuyển đổi số vào quá trình cải cách kinh tế – thể chế sẽ giúp phát huy vai trò là một ‘nền tảng tăng trưởng mới’.

]]>
Chuyển đổi số khu vực công: Thách thức và cơ hội cho một chính phủ số hiệu quả https://tapchidoanhnhan.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-thach-thuc-va-co-hoi-cho-mot-chinh-phu-so-hieu-qua/ Mon, 25 Aug 2025 12:19:02 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-thach-thuc-va-co-hoi-cho-mot-chinh-phu-so-hieu-qua/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đang là một quá trình cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng dịch vụ công. Tuy nhiên, quá trình này cũng đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng và nhân lực. Để xây dựng một hệ thống chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quản lý nhà nước, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc.

Thách thức chuyển đổi số khu vực công

Trong diễn đàn “Chuyển đổi số khu vực công – Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội” diễn ra gần đây, ông Phạm Mạnh Hùng – Phó Tổng Giám đốc VOV cho biết, khu vực công đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn đường và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế – xã hội thông qua quá trình số hóa và thích ứng nhanh chóng. Chuyển đổi số trong khu vực công được xác định là một đột phá hàng đầu và là động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, thúc đẩy kinh tế – xã hội và ngăn chặn nguy cơ tụt hậu.

Tuy nhiên, việc triển khai quá trình chuyển đổi số trong khu vực công cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức về hạ tầng số. Đặc biệt là ở cấp cơ sở, dữ liệu chưa đồng bộ, thiếu kết nối, thiếu chia sẻ giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, tâm lý e dè đổi mới ở một số nơi. Cùng với đó, hệ thống thể chế và chính sách pháp luật về chuyển đổi số còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hòa – Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM/VUSTA, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, thách thức lớn nhất trong chuyển đổi số khu vực công là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn sử dụng các hệ thống công nghệ cũ kỹ, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc tích hợp các giải pháp số hóa mới.

Xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc

Ông Chử Đức Hoàng – Chánh văn phòng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) kiến nghị, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam đang tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển. Trong đó, việc hình thành các cơ chế thử nghiệm đóng vai trò then chốt, cho phép kiểm tra và hoàn thiện các giải pháp số hóa trước khi triển khai rộng rãi.

Để cụ thể hóa những định hướng này, việc thể chế hóa các quy định pháp luật là vô cùng cần thiết. Một trong những yếu tố cốt lõi để hiện thực hóa chuyển đổi số là việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành đồng bộ, liên thông.

Chuyển đổi số thành công đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ vào con người và một niềm tin vững chắc vào đội ngũ. Nếu thiếu đi niềm tin, mọi nỗ lực sẽ trở nên vô nghĩa. Điều này đặc biệt đúng khi xây dựng đội ngũ công nghệ thông tin (IT) và chuyên gia – những nhân tố cốt lõi cho sự phát triển.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hoà đề xuất, cần tăng ngân sách cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng số, như trung tâm dữ liệu quốc gia và mạng 5G, đặc biệt ở các địa phương. Đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo kỹ năng số cho cán bộ, công chức, hợp tác với các trường đại học và doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực công nghệ.

Việt Nam cần khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển giải pháp số cho khu vực công, như ứng dụng AI, blockchain, hoặc IoT. Ngoài ra, cần triển khai các chiến dịch truyền thông để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo các nền tảng dễ sử dụng và hỗ trợ đa ngôn ngữ.

]]>
Nông nghiệp thiếu nhân lực chất lượng cao https://tapchidoanhnhan.com/nong-nghiep-thieu-nhan-luc-chat-luong-cao/ Wed, 06 Aug 2025 22:52:07 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/nong-nghiep-thieu-nhan-luc-chat-luong-cao/

Ngành nông nghiệp hiện đang đứng trước một thách thức đáng kể trong việc thu hút và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Dữ liệu mới nhất từ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho thấy, tính đến năm 2025, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp có bằng cấp chỉ đạt 6,1%. Con số này chỉ tăng nhẹ so với mức 4,1% vào năm 2015. Sự gia tăng này cho thấy sự cải thiện nhưng vẫn còn chậm trong việc nâng cao trình độ chuyên môn của lao động ngành nông nghiệp.

Song song với thách thức về chất lượng lao động, giáo dục đào tạo ngành nông nghiệp cũng đang đối mặt với xu hướng suy giảm. Cụ thể, số lượng người theo học ngành nông nghiệp đã giảm 31,1% trong vòng một thập kỷ qua. Xu hướng giảm này đặt ra những thách thức nghiêm trọng về việc đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành nông nghiệp trong tương lai. Trong bối cảnh nhu cầu về thực phẩm và sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng cao, việc đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu này là cực kỳ quan trọng.

Thực trạng này đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt từ các cơ quan quản lý, cũng như việc cần có những giải pháp thiết thực để đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ngành nông nghiệp. Việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo, cùng với các chính sách thu hút nhân tài, là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành nông nghiệp. Từ đó, ngành nông nghiệp mới có thể phát triển bền vững và đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Để tìm hiểu thêm về tình hình lao động và đào tạo trong ngành nông nghiệp, có thể tham khảo thêm thông tin từ các nguồn chính thống như Trang thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Những thông tin này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về thực trạng và giải pháp cho thách thức về nhân lực trong ngành nông nghiệp.

]]>
Bệnh án điện tử khó triển khai do tài chính, nhân lực và hạ tầng kỹ thuật https://tapchidoanhnhan.com/benh-an-dien-tu-kho-trien-khai-do-tai-chinh-nhan-luc-va-ha-tang-ky-thuat/ Fri, 01 Aug 2025 01:33:32 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/benh-an-dien-tu-kho-trien-khai-do-tai-chinh-nhan-luc-va-ha-tang-ky-thuat/

Triển khai bệnh án điện tử là một bước tiến quan trọng trong việc chuyển đổi số y tế, giúp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và quản lý y tế. Tuy nhiên, quá trình triển khai đang gặp nhiều khó khăn về tài chính, nhân lực chuyên môn và hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là tại các bệnh viện tuyến huyện. Cử tri TP Hải Phòng đã kiến nghị Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ về nguồn lực và kỹ thuật để giúp các bệnh viện tuyến huyện triển khai hiệu quả bệnh án điện tử.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã phản hồi rằng Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo hành lang pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số y tế. Các văn bản này bao gồm Nghị quyết 193/2025, Nghị định 88/2025, Chỉ thị 07, đặt nền tảng cho chuyển đổi số y tế, hướng tới xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh dựa trên công nghệ số.

Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 1150 về kế hoạch triển khai hồ sơ bệnh án điện tử, giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc giải quyết các vấn đề về chi phí dịch vụ khám, chữa bệnh trên hệ thống RIS-PACS. Thông tư 13/2025 của Bộ Y tế cũng đã hướng dẫn kỹ thuật triển khai bệnh án điện tử, cung cấp căn cứ pháp lý cho các cơ sở y tế thực hiện.

Bộ Khoa học và Công nghệ cũng xác định y tế là lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số, đề xuất đưa vào chương trình Chuyển đổi số quốc gia, hỗ trợ khám, chữa bệnh từ xa và đơn thuốc điện tử. Ngày 13-5, Bộ Y tế đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 102/2025 quy định về quản lý dữ liệu y tế nhằm phát triển về hạ tầng dữ liệu y tế.

Tuy nhiên, tính đến ngày 22-7, cả nước mới có 283 trong tổng số hơn 1.500 cơ sở y tế đã triển khai bệnh án điện tử. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 07, giao Bộ Y tế chỉ đạo, đôn đốc 100% các bệnh viện trên toàn quốc phải triển khai bệnh án điện tử, hoàn thành trong tháng 9-2025. Với khối lượng công việc nhiều, phức tạp, đòi hỏi các đơn vị chức năng, bệnh viện phải quyết liệt để hoàn thành đúng lộ trình đề ra.

]]>
Chính sách mới hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam https://tapchidoanhnhan.com/chinh-sach-moi-ho-tro-phat-trien-cong-nghiep-ho-tro-viet-nam/ Sat, 26 Jul 2025 04:19:41 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/chinh-sach-moi-ho-tro-phat-trien-cong-nghiep-ho-tro-viet-nam/

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP, mở rộng các ưu đãi về vốn, công nghệ, nhân lực và thị trường để thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Nghị định này được kỳ vọng sẽ tháo gỡ nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, pháp lý và thị trường cho doanh nghiệp trong lĩnh vực then chốt này.

Theo chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong công nghiệp chế biến, chế tạo, với mục tiêu tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45–50% vào năm 2030.
Theo chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong công nghiệp chế biến, chế tạo, với mục tiêu tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45–50% vào năm 2030.

Nghị định 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Chính sách mới này có hiệu lực từ ngày 1/9 tới đây. Theo các chuyên gia kinh tế, chính sách mới này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Đặc biệt, Nghị định 205/2025/NĐ-CP bổ sung quy định hỗ trợ tối đa 70% chi phí cho các hoạt động đào tạo chuyên gia, nâng cao năng lực tổ chức tư vấn và phát triển đội ngũ nhân lực kỹ thuật trong ngành. Đối tượng thụ hưởng gồm cả sinh viên xuất sắc, giảng viên, nghiên cứu viên, chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề đang làm việc trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Nghị định mới cũng mở rộng hỗ trợ đối với các yếu tố gián tiếp nhưng mang tính quyết định, như môi trường đầu tư, thủ tục pháp lý, tiêu chuẩn kỹ thuật và phát triển thị trường. Doanh nghiệp đầu tư vào khu hoặc cụm công nghiệp hỗ trợ sẽ được hỗ trợ thực hiện các quy định bảo vệ môi trường.

Về mặt pháp lý, doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên sẽ được tiếp cận các chương trình hỗ trợ pháp lý hiện hành, đồng thời được miễn, giảm một số chi phí hành chính theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cơ chế hỗ trợ kiểm định chất lượng cũng được đưa ra, doanh nghiệp sẽ được tài trợ một phần chi phí để thực hiện thử nghiệm, giám định, chứng nhận tiêu chuẩn, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, đăng ký bản quyền thương hiệu, mã vạch và các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ.

Ở khía cạnh thị trường, nghị định cho phép doanh nghiệp được hỗ trợ tối đa 70% chi phí khi tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ – triển lãm trong và ngoài nước, cũng như các hoạt động liên kết với tập đoàn đa quốc gia để mở rộng chuỗi cung ứng.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước – mức cao nhất kể từ năm 2020 đến nay. Riêng ngành chế biến – chế tạo tăng 11,1%, góp 9,1 điểm % vào mức tăng chung.

Việt Nam hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Bắc Ninh, Đồng Nai… Tuy nhiên, phần lớn vẫn là doanh nghiệp quy mô nhỏ, năng lực tài chính và công nghệ còn hạn chế, chủ yếu làm gia công cấp thấp, tỷ lệ nội địa hóa chưa cao.

Nghị định 205/2025/NĐ-CP vì vậy không chỉ là chính sách ngắn hạn nhằm gỡ khó về vốn và công nghệ, mà còn là bước đi dài hạn để xây dựng nền tảng tự chủ về sản xuất – một trong những yếu tố then chốt để đảm bảo tăng trưởng bền vững, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt.

Khi được triển khai bài bản và minh bạch, Nghị định 205/2025/NĐ-CP sẽ đóng vai trò ‘đòn bẩy’ thúc đẩy cả hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và hội nhập. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tránh lệ thuộc vào nhập khẩu linh kiện, nguyên vật liệu; đồng thời tăng khả năng tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực, tận dụng làn sóng dịch chuyển đầu tư quốc tế.

]]>
Đà Nẵng ‘khát’ nhân sự công nghệ thông tin ở cơ quan chính quyền địa phương https://tapchidoanhnhan.com/da-nang-khat-nhan-su-cong-nghe-thong-tin-o-co-quan-chinh-quyen-dia-phuong/ Mon, 21 Jul 2025 03:56:51 +0000 https://tapchidoanhnhan.com/da-nang-khat-nhan-su-cong-nghe-thong-tin-o-co-quan-chinh-quyen-dia-phuong/

Nhiều địa phương cấp xã tại thành phố Đà Nẵng đang phải đối mặt với thách thức về thiếu nhân lực chuyên trách lĩnh vực công nghệ thông tin. Điều này gây ra khó khăn trong quá trình vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Xã Sông Kôn là một điển hình, hiện chỉ có một công chức khối Đảng có trình độ đại học công nghệ thông tin. Người này đang tạm thời kiêm nhiệm hỗ trợ khối UBND xã thực hiện công tác ứng dụng công nghệ thông tin.

Tuy nhiên, do phải thực hiện nhiều nhiệm vụ chuyên môn khác, thời gian dành cho công tác công nghệ thông tin còn rất hạn chế. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ công việc chung của Đảng ủy, chính quyền địa phương. Khối lượng công việc liên quan đến công nghệ thông tin ngày càng nhiều, vượt quá khả năng của một cán bộ kiêm nhiệm. UBND xã Sông Kôn đã đề xuất tuyển dụng mới 2 nhân sự hoặc điều động công chức/viên chức có chuyên môn lĩnh vực công nghệ thông tin.

Tương tự, UBND xã Tây Giang cũng kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét bổ sung cán bộ, công chức chuyên môn tại một số vị trí còn thiếu. Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách công nghệ thông tin còn mỏng. Kỹ năng tham mưu chuyển đổi số tại cơ quan, đơn vị, địa phương đôi lúc còn yếu.

Để giải quyết vấn đề này, Sở Nội vụ đã đề xuất UBND thành phố cho phép các địa phương hợp đồng nhân lực phụ trợ về công nghệ thông tin. Đồng thời, các xã, phường đã đăng ký nhu cầu bố trí từ 2-3 sinh viên năm cuối ngành công nghệ thông tin về hỗ trợ địa phương trong giai đoạn đầu vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Phó Chủ tịch UBND thành phố Trần Nam Hưng đã ghi nhận tình trạng thiếu nhân lực phụ trách lĩnh vực công nghệ thông tin. Ông cho rằng trong khi chờ thành phố giải quyết, các địa phương có thể linh hoạt ký hợp đồng với các đơn vị cung ứng dịch vụ công nghệ thông tin để được bổ sung nhân lực phụ trách lĩnh vực này.

Các địa phương cần phải chủ động trong việc tìm kiếm giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực công nghệ thông tin. Việc linh hoạt hợp đồng với các đơn vị cung ứng dịch vụ công nghệ thông tin có thể là một giải pháp tạm thời. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và phát triển lâu dài, thành phố cần có kế hoạch tổng thể để giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực công nghệ thông tin tại các địa phương.

]]>